CHƯƠNG THỨ HAI
NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG TƯỚNG HỌC
I- ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA :
a) Lược sử :
Thuyết Aâm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ
Trung Hoa là kinh Dịch .Tuy vậy.kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các
kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truền đến đời
Khổng Tử.Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi
lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi.
Theo truyền thuyết , người nhận thức được các lẽ Aâm Dương biến hóa của
trời đất , vạn vật là vua phục Hy (khoảng 44 thế kỉ trước công nguyên), người
minh thị đề cập đến cái d5ng củaNgũ hành là vua Hạ Vũ (khỏng 22 thế kỉ trước Tây
lịch)
Đến thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch,tại nước Tề (nay là tỉnh Sơn Đông) ,có học giả Trâu Diễn , căn cứ vào kinh Dịch , đã phổ biến và hết tinh thần và công dụng của âm Dương,ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn vào con người nữa . Do đó,người đời sau coi Trâu Diễn như người khai phá ra phái Aâm Dương . Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý-Số do các học giả đời Tống sau nay sáng lập.
Đến đời Hán,học giả Dương Hùng (53 trước Tây lịch-20Tây lịch) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý-Số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.
Đến đời Tống sơ (khoảnh thế kỉ 10) ,một nhân vật Đạo gia kiêm Nho gia là
Trần Đoàn ,tự là Đồ Nam,hiệu là Hi Di tiên sinh ,tinh thông cả Lý-Số hoc của các
nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giải về lý Thái cực của vũ trụ, lấy lượng số
mà xét sự vậnchuyển của Trời Đất , suy diễn ra hành động của vạn vật mà áp dụng
các hiệu quả của lý Thái cực vào Nhân tướng học đến giải đoán tâm tình , vận số
của con người , mở đầu cho Lý-Số học và Tướng số học.
Từ đó về sau ,quan niệm Aâm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân
tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật .
b) Nội dung của thuyết Aâm Dương , Ngũ hành :
Theo cổ nhân Trung hoa, lúv đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn,không có hình
dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mang. Trong sự Hỗn mang đó, bàng bạc cái lẽ vô
hình linh diệu gọi là Thái cực.(Sở dĩ gọi nó là Thái cực vì nó huyền bí và vô
tận nên không thể xáx định rõ bản thể của nó ra sao ).
Tuy nhiên, dù không biết được cái chân tính và cái chân chất của cái lẽ Thái
cực huyền vi song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hóa của vạn
vật mà suy ra được cái động thể của Thái cực. Căn bản của sự biến hóa được biểu
lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh .Động gọi là Dương, tĩnh gọi
là Aâm .Dương lên đến cực độ lại biến ra Dương .Hai cái trạng thái tương đối của
cái Bản thể nguyên khởi duy nhất (Thái cực) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau,
sinh sinh hoá hóa không ngừng mà sinh ra Trời Đất,Người cùng vạn vật. Vì Aâm
Dương phối hợp đunđẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển, Sự biến chuyển chính là
nền tảng của Dịch .Do đó, trong phần chù giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói : "Aâm
nhu Dương cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hóa " (nghĩa là Aâm thì
mềm,Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy nhau chuyển hóa thành thiên hình vạn trạng
).
Theo cổ nhân, mỗi chu trìh gồm 4 giai đoạn :
a)Nguyên :khởi đầu của sự biến hóa
b)Hanh :sự thông đạt, hội hợp các thành tố.
c)Lợi : sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng.
d)Trinh : sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật.
Biến hóa là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hóa của vũ
trụ và vạn vật. Do đó, kinh Dịch mô tả diễn trình tiến hóa (Dịch) một cách khái
quát như sau :
"Dịch hữu Thái cực sunh lưỡng nghi, luỡng nghi sinh tứ tương, tứ tương sinh Bát
quái, Bát quái sinh Ngũ hành : đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực , Thái cực sinh
ra hai Nghi ( Aâm và Dương) , hai Nghi sinh ra bốn Tương (bốn trạng thái tượng
trưng
là bốn mùa :xuân, hạ thu , đông), bốn tượng sinh ra tám Quẻ (Kiền, Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) tượng trưng cho Trời , Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Núi, Nước,
Đất ), tám Quẻ sinh ra năm Hành (năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình
:Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)
Khởi đầu của sự biến hóa rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hóa dần
dần thành cái phồn tạp. Vì âm Dương là hai thành tố đầu tiên trong vũ trụ , nên
kinh Dịch chọc là biểu tương căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản:
a)Vạch liên tục ( _ ) tượng trưng cho Dương .
b)Vạch gián đoạn (- - ) tượng trưng học âm.
Trong phép biến hóa để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Aâm Dương lần
lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với
hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :
1-Kiền tượng trưng cho Trời .
2-Đoài tượng trưng cho Đầm, Ao
3-Ly tương trưng cho Lửa
4-Chấn tượng trưng cho Sấm
5-Tốn tượng trưng cho Gió
6-Cấn tượng trưng cho Núi
7-Khảm tượng trưng cho Nước
8-Khôn tượng trưng cho Đất.
Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là "Tiên thiên Bát quái" do vua Phục Hy
(4477-4363) trước Tây lịch vạch ra để giải thách cái lẻ AâmDương biến hóa của
Táhi cực .
Về sau vua Hạ Vũ (2205-2163) trước Tây lịch đặt ra Cửu Trù ( chín phép lớn) phối
hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hóa
của vũ trụ và vạn vật.
Tới đời Tây Chu , vua Văn Vương , trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng
thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên
Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ , Bát quái mới gọi là hậu thiên bát quái với
các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc người .
Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và
công dụng của quẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ , chỉ có các kẻ có thiên tư
đặc biệt được tâm truyền mới ánh mắt hiệu được .Tình trạng của Dịch lí từ thượng
cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.
Đến đời Đông Chu , Khổng Tử (511-478 trước Tây lịch ) đem kiến giải của mình
bổ sung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành
Kinh dịch trong đó bao gồm cả Aâm Dương ,Bát quái và Ngũ hành.
Căn cứ theo ý nghĩa thông thường , cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ Hành các ý
nghĩa tượng trưng sau đây :
Dương : tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng ,sinh động, cứng cát,ban ngày,
đàn ông....
Âm :tượng trưng cho mặt trăng ,tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão,ban
đêm,đàn bà....
Kim: vàng, bạc hiểu rộng ra là tất cạ các chất kim thuộc.
Mộc: cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất.
Thủy: nước và nói rộng ra là các chất lỏng.
Hoả: lửa , hơi ấm
Thổ: đất đá , nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại .
Về phương diện siêu hình Aâm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình
thể mà chỉ là cái biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn
như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khỏe với yếu...
Về phương diện ý nghĩa siêu hình của ngũ hành , ta củng đi đến kết quả tương
tự Kim ,Mộc, Thủy,Hỏa ,Thổ, ngoài tính cách vật chất của nó kể trên có một ý
nghĩa tượng trưng cho tính cách tương sinh, tương Khắc trong sự biến hóa của
muôn vật diễn
ra hàng ngày trước mắt.
Trong tướng học , người ta rất chú trọng đến Nhũ Hành và thường hiểu Kim,
Mộc ,Thũy, Hoả, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng
hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
a) ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa :
Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời
Tống trở đi, Aâm Dương thuộc Ngũ Hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ.
Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hóa sâu đậm
của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ hành đem giải thích và gán ghép các đặt tính
của vật chất được siêu hình hóa của Kim, Mộc ,Thủy, Hỏa , Thổ vào các lãnh vực
thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây:
1) Phương hướng , màu sắc, bốn mùa
b)- Mộc tượng trưng cho mùa ,màu xanh, phương đông
Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu
trình biến hóa mới của vạn vật bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng.Mặt đất về mùa
Xuân ,đâu đâu cũng một màu xanh thắm,Thái dương bắt đầu mọc ở Phương Đông .Tất
cả đều bàn bạc ý nghịa cụa Aâm Dương tương thôi với Dương lấn lướt âm một cách
tương đối trong cái trung dung của Aâm dương ( Aâm dương tỷ hòa thì vạn vật mới
sinh).Do đó , cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân.màu xanh, Phương Đông.
c)- Hỏa biểu thị mùa Hạ,màu Đỏ, phương Nam
Múa hè nóng nực bức như lửa thiêu ,Dương cương lên đến cùng cực .Hoa lá đặc
trưng của mùa này như lựa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ ,phương Nam gần như ấm áp
quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ ,màu Đỏ và phương Nam vậy.
d)Kim tiêu biểu cho mùa Thu,màu Trắng và phương Tây
Mùa Thu là giai đoạn cho Aâm Dương tương thôi bình hòa khí trời nóng quá,không
lạnh lắm nhưngDương cương bắt đầu suy ,âm nhu bắt đầu thịnh .Mặt trời lặn ở
phương Đông.Trời mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ ,nên cổ nhân mới nhân
đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa thu ,màu trắng và phương Tây .Nói kh1c đi theo
Ngũ hành thì mùa Thu ,sắc trắng,phương Tây thuộc Kim.
e)Thủy tiêu biểu cho mùa đông ,màu Đen ,phương Bắc
Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, gia buốt ,cảnh vật ảm đạm,cửa
nẻo đóng kín,tối tăm.Tuyết la 2một trang tháicủa nước , phương Bắc thường hay có
tuyết nên với tinh thần tượng hình ,chuyển ý ,cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy
mùa Đông ,màu Đen ,phương Bắc .
f)Thổ tiêu biểu cho Đất,ø màu Vàng ,Trung ương
Người tàu phát tích ở sông Hoàng Hà ,đất đai ở đây màu vàng (hoàng thổ) nên dựa
vào sự vật để định tên ,lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng
cho sắc Thổ .Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát ,tự coi
mình là người trung thổ ,danh xưng là Trung quốc nên màu vàng là màu trung ương
,Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà, vạn vật
(Sông núi muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).
2-Năm đức tính căn bản của con người :
a) Nhân ứng với Mộc :
Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh ,ung dung tự tại ,không cạnh tranh ,bao dung và đãi
người đồng đẳng .thảo mộc vốn không di động cạnh tranh ,loài tùng bách quanh năm
xanh tươi, bất chấp gió sương nóng lạnh ,tượng trưng cho thái độ an tĩnh ,ung
dung tự tại .Cây cỏ còn để người che mưa che nắng ,không phân biệt mội ai .Hoa
quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được .Cái đức tự nhiên lưu hành của
thảo mộc tương tự như đức Nhân ở nhân loại .do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói : "
Nhân giả nhao sơn " (bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng
trưng cho đức Nhân của tạo vật .
b) Nghĩa ứng với Kim :
Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý ,hằng cửu ,không biến
chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa .Loài Kim thuộc
như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn ,khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay
nơi khác ,lúc nào cũng vậy ,phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim
tượng trưng cho Nghĩa .
c)Lễ ứng với Hỏa :
Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép ,tạo nên tôn trọng duy trì
diềng mối ,phát huy chân lí tự nhiên lưu hành ,Tế tự là một hình thức của lễ
,biểu dương sự tôn kính. Một trong những ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi Tế
tự ,làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng (về phương ý
nghĩa triết học ) của Hỏa và Lễ tương đồng ,nên Lễ ứng với Hỏa.
d) Trí ứng với Thủy :
Kẻ trí không điều gì là không thấu triết ,nước không đâu là không thông qua. Cái
được của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách
đầy biểu tượng : "Trí giả nhao Thủy" (Bậc trí giả thích nước) .Do đó, Thủy tượng
trưng cho Trí.
e) Tín ứng với Thổ :
Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy.Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất
cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cạy cối theo đúng chu
trình chuyển hóa tự nhiên của tạo vật ,không bao giờ sai chạy. Do đó ,so với Tín
thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tương đồng .
3-Năm cung bậc trong âm nhạc :
a) Cung ứng với Thổ.
b) Thương ứng với Kim.
c) Giốc ứng với Mộc.
d) Chủy ứng với Hỏa.
e) Vũ ứng với Thủy.
II./ ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC :
âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn
tưởng mà lại rất tương đối .Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Aâm ,cứng gọi
là Dương ,mềm là Aâm,v.v... Nói cách tổng quát thì Trời có Aâm Dương .Đàn ông
được xem là Dương ,đàn bà là Aâm, nhưng chỉ là điều khái lược .Trong mỗi con
người lại cũng có phân biệt Aâm và dương nữa.
Toàn thể thân thể đàn ông là âm ,nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có
tên là dương vật .Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lai là Aâm
nên gọi là âm hộ.
Xương thì coi là Dương ,thịt coi la âm .
Phía mặt bên trái là Dương ,bên phải là Aâm.
Phía trên khuôn mặt (kể từ chính giữa thân mũi ) Dương, phần sau là âm.
Phần thân trước là Dương, thân sau là Aâm.
Trong khu vực thuộc mắt,phần trên là Dương, dưới là Aâm.Mắt trái là
Dương,phải là Aâm.
Nhưng phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương ,những phần trũng xuống coi là
âm.
Dương thì lộ liễu và hướong lên,Aâm tìh ẩn tàng và hướng xuống.Dương cốt ở an
hòa,Aâm cốt ngay ngắn,Dương hcủ về cứng rắn,Aâm chủ về mềm mại.Aâm dương mỗi con
người cần phải Hòa phải Thuận .Hòa có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch,
không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố điều đặn khắp
chân thân.âm Dương chủ hòa chủ về phúc thọ
Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn ,thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên (chẳng hạn bộ phận này thì quá nhiều thịt ,bộ phận kia thì quá cằn cỗi ) thì gọi là âm dương không htuận hòa. Hoặc Aâm thịnh Dương suy (thịt nhiều mà xương,bệu lại yếu và nhỏ ,không cân xứng) hoặc Dương cường Aâm nhược (cốt lộ, thịt ít) đều là các tướng phản lại nguyên tắc âm Dương thuận hòa :chủ về hung hiểm bất tường .
Nói một cách tổng quát ,vô luận nam nữ,trong mỗi con người ,(hình tướng,khí
sắc, tính cách, âm thanh ,phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lí
âm dương chi phối.
Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần có Aâm thích nghi điều hòa .Đàn bà vốn
thuộc âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu không thế, đànông chỉ có thể Dương
thuần mà không có Aâm chất thì sẽ mất sự khống chế cầb thiết ,đàn bà chỉ có
âm nhu mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không thể tự
tiến triển được.
Tuy nhiên ,dù Duơng thuần phải có âm chấtđể điều hòa cho thích nghi nhưng
âm không được lấn át phần dương .Nếy Aâm chất thái quá người ta gọi là Dương sai
.
âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át phần âm ( vốn là phần căn bản) thì trường hợp đó mệnh danh là Aâm thác.
Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong một
con người .Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý
âm
Dương thích nghi .Nói khác đi. Không được phạm vào Aâm Thác hoặc Dương Sai .Đi
sâu vào phần chi tiết ta phân biệt:
a) Dương hòa
Tính cách Dương mãnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương
hoà .Dương hoà bao gồm:
- Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng.
- Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức,trán có xương tròn nổi lên rất rõ.
- Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu,Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán
đường.
- Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực , lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù
lông mày gập cong như hình chữ chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như
chữ).
- Sợi lông mày hơi hướng về phía trên.
- Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần.
- Sắc diện hoà ái , chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên.
- Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện , tư tưởng khoáng đạt. Lâm sự
quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh. Đi đứng ung dung.
b) âm thuận
Tính cách Aâm rõ ràng nhưng không quá ủy mỉ hèn yếu thì gọi là Aâm thuận
.Được coi là Aâm thuận khi:
- Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẵn không xoá hẳn được những nét tròn trịa.
- Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn
đó)
- Sơn căn mạnh mẽ có thế .Aán đường bằng phẳng, rộng
- Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài( không được quá dài )
- Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo.
- Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng hkông nhanh nhưng không quá trễ
hoặc lý lợm.
- Sắc diện hòa nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cảm.
- Xử sự ôn hòa.
c) Kháng dương
Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương
.Các dấu chỉ của Kháng Dương bao gồm:
- Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn.
- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục.
- Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn , nhỏ.
- Lông mày ngắn mà cong hoặc ngắn mà thế của màylại hướng lên.
- Mắt lồi mà tia mắt long lanh.
- Tai nhọn mà dựng đứng.
- Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè.
- Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ suất, không nghĩ trước, không lo sau
khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ.
d) Cô âm:
Chỉ có những cách Aâm thuần tuý mà không cò Dương Tính để hỗ trợ thì gọi là Cô
Aâm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau:
- Toàn thể đầu và khuôn mặt đều là hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc
đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ, không tương xứng
- Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm
xuống
- Mắt xấu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày
thô, hoặc lông mày quá đậm và ngắn
- Râu ria quá rậm rạp không thích nghi với tóc
- Tiếng nói có vẻ như khò khè ở cuống họng, điện nói chậm rãi mà trong đó lại
chen kẽ âm thanh chói tai hoặc nhanh mà đứt đoại
- Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người
ngoài thoáng thấy là đã nhận ra ngay là con người ác hiểm
e) âm thác, Dương sai:
Bản chất căn bản là âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương Tính khiến phần Aâm trở
thành thứ yếu thứ nhì gọi là Aâm thác. Ngược lại bản chất căn bản là Dương nhưng
mà Dương Tính quá yếu khiến chất Aâm lấn rõ rệt gọi là Dương sai. Dưới đây là
biểu hiện bề ngoài của hiện tượng trên
- Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Aâm, phía trước mặt thuộc Dương, phía
sau gáy (ót) thuộc Aâm, cho nên đầu lớn, mặt nhỏ, phía trước lớn và phía sau nhỏ
gọi là Dương sai
- Đầu vuông thuộc Aâm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch
gọi là Aâm thác
- Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc âm. Do đó
nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở mà Trung Nhạc lõm xuống thì gọi là Dương sai.
Tuy nhiên bốn nhạc phụ tuy đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung Nhạc nổi
cao một mình thì gọi là Aâm Thác
- Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng
nhỏ gọi là Dương Sai. Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lan
xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp. Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói
khô khan ... đều được mệnh danh là Aâm Thác
- Mặc tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch
lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương Sai. Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng
cỏi như Nam Giới thì gọi là Aâm Thác.
Tóm lại vấn đề Aâm Thác Dương Sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu
không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến
hai nguyên tắc căn bản của Dương Sai, Aâm thác như sau:
1. Đàn ông được coi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể phương
diện gì : đi , đứng , ăn , nói ...) khá rõ thì gọi là chính dương sai .
2. Đàn bà được coi là thuần Aâm nếu pha trộn nam tính (dù về phương diện gì cũng
vậy) quá lộ liễu thì gọi là Chính Aâm Thác.
Từ 2 nguyên nhân căn bảntrên, ta đi đến 4 hệ luận :
a)Bất kể nam nữ đều lấy đầu ,âm thanh,cốt cách tượng trưng cho Dương chất.Cho
nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách
trầm ổn ,vững chải, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được
như thế là cát tướng .
Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì đầu thân hình lớn hay
nhỏ đều không đáng kể gì vì đó là hung tướng ,tượng trưng hco Dương sai.
b)Bất kể nam nữ ,đều lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương,cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu và thô bỉ ,râu tóc và lông mày thách nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm ,râu ria lông mày quá đậm là hung tướng vò đó bị gọi la âm thác.
c)Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp ,xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nê tiểu tiết, không biết quyền biến ,đó la Dương không khống chế được âm nên gọi là Dương sai .
d) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần đó là Aâm không kiềm chế được dương nên gọi là âm thác.